Quy Hoạch Các Trường Khối Sư Phạm, Đề Xuất Giải Thể Đại Học Vùng
Tại Hội thảo Giáo dục 2018 mới đây, nhiều chuyên gia giáo dục đề xuất về việc quy hoạch trường sư phạm để "siết" chất lượng, số lượng nguồn giáo viên. Đồng thời, xem xét giải thể mô hình đại học vùng.
Mô hình đào tạo sư phạm truyền thống gây lãng phí?
"Tính đến hết năm học 2016-2017, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam có 235 đại học, học viện. Đối với nhóm trường sư phạm và đào tạo giáo viên, hiện có 58 đại học, 57 cao đẳng, 40 trung cấp, trong đó có 14 đại học, 33 cao đẳng và 2 trung cấp sư phạm'' GS.TS Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội dẫn số liệu cho biết "Trên thực tế, với số lượng các cơ sở đào tạo giáo viên như bây giờ và với thực trạng tuyển sinh khá lớn, thiếu kiểm soát của các trường nhóm ngành.
Sư phạm sẽ tạo ra sự dư thừa lớn về nhân lực, hệ quả không chỉ gây lãng phí tài chính mà đáng lo ngại hơn là các vấn đề xã hội", đại diện này bày tỏ quan ngại. Ngoài ra, việc tổ chức và chất lượng đào tạo của các trường đang không đồng nhất, không đảm bảo được chất lượng đào tạo vì muốn đổi mới thành công phải bắt đầu từ thầy cô và không thể phát triển giáo dục nếu không có người thầy cô giỏi. Theo GS. TS Nguyễn Văn Minh, hầu hết trường đào tạo giáo viên thuộc hệ thống công lập.
Trong điều kiện khó khăn, nền kinh tế - xã hội, khó đủ tiềm lực trang trải, đầu tư đồng bộ cho một hệ thống trường Sư phạm như hiện nay. Ngược lại, việc đầu tư dàn trải không tạo được một sự bứt phá nào trong phát triển các cơ sở trường đào tạo ngành sư phạm. Từ thực tế đó, Hiệu trưởng trường Đại Học Sư phạm Hà Nội cho rằng, việc quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở đào tạo sư phạm hiện nay là rất cần thiết nhằm hình thành các cơ sở đủ vững mạnh, đào tạo đi liền với chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục đất nước trong thời kỳ mới.
Ông Minh dẫn chứng mô hình cung cấp nguồn giáo viên ở một số nước tiên tiến trên thế giới. Chẳng hạn ở một số bang của Mỹ, chỉ gần một nửa giáo viên mới vào nghề là sinh viên Sư phạm tốt nghiệp từ các trường sư phạm theo hình thức đào tạo truyền thống. Các chương trình đào tạo giáo viên linh hoạt được Nhà nước Mỹ ủng họ, vì chúng thu hút một lực lượng đông đảo mọi thành phần xã hội tham gia hoạt động giáo dục ở nhiều loại hình cơ sở giáo dục khác nhau.
Có thể nâng số lượng giáo viên cùng lúc với việc duy trì hoặc thậm chí cải tiến chất lượng giảng dạy. Việc rập khuôn đào tạo giáo viên theo mô hình sư phạm truyền thống tỏ ra lãng phí và không hiệu quả do thiếu cải tiến về giảng dậy. Ở Úc, đào tạo giáo viên cũng theo yêu cầu của xã hội và dịch chuyển nghề nghiệp; ví dụ nếu tốt nghiệp cử nhân ngành khoa học cơ bản có thể học thạc sĩ giáo dục để trở thành giáo viên. Nước này hiện có tới 62 trường đại học có khoa học ngành đào tạo giáo viên.
Singapore chỉ có một đơn vị đào tạo giáo viên trực thuộc Đại học Nanyang. Ông Minh cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình, chương trình đạo tạo giáo viên của các nước phát triển, đặc biệt là các nước châu Á lân cận. Đại diện này đề xuất xây dựng hệ thống trường Sư phạm gồm khu vực phía Bắc 3 cơ sở, miền Trung 2, miền Nam 2 và Tây Nguyên 1 cơ sở.
Nguồn lực của các cơ sở này có thể đào tạo từ 15.000 đến 20.000 nhân lực giáo dục mỗi năm. Mặt khác, các cơ sở khác, các trường cao đẳng Sư phạm thành các phân hiệu, các cơ sở thực hành, bồi dưỡng, trở thành nhân tố tác động tích cực và trực tiếp để phát triển giáo dục địa phương.
24 năm thử nghiệm, mô hình đại học vùng không đạt hiệu quả như mong muốn ?
GS Từ Quang Hiển - nguyên Giám đốc Trường Đại học Thái Nguyên thẳng thắn đề xuất giải thể mô hình đại học vùng. Theo ông, mô hình này thử nghiệm được 24 năm, cho thấy cản trở sự phát triển của các trường đại học thành viên.
"Chúng ta đang tạo ra cấp trung gian quản lý trong quản lý giáo dục đại học hiện hành. Tôi từng là hiệu trưởng đại học thành viên cũng là giám đốc đại học vùng nên rất thấu hiểu tình trạng của đại học vùng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ nghiên cứu kỹ mô hình này. Nếu giải thể được là tốt nhất", ông Hiển kiến nghị.
Theo ông Hiển, nếu không giải thể đại học vùng thì trao quyền tự chủ cao cho các trường đại học thành viên và có cơ chế chính sách cho đại học vùng. Bên cạnh đó, phương thức quản lý đại học vùng, đại học quốc gia cũng cần có những đổi mới để có thể phát huy tối đa năng lực, tiềm năng, và vai trò của các trường thành viên.
“Tôi kiến nghị thay đổi cách quản lý của đại học quốc gia và đại học vùng giống như quản lý của nước ngoài, có nghĩa là đại học không phải là cấp quản lý trung gian (tổng cục), cũng không phải là cấp trên của các trường đại học thành viên; thực hiện được như vậy thì đại học và các trường thành viên đều phát triển bền vững.
Có cơ chế mở về đại học quốc gia/vùng, các trường đại học độc lập đóng cùng địa bàn với đại học quốc gia/vùng có thể tham gia đại học với tư cách trường thành viên, ngược lại các trường thành viên của đại học cũng có thể tách ra thành trường đại học độc lập”, GS Từ Quang Hiển phát biểu tại hội thảo.
BẠN THÍCH BÀI VIẾT NÀY ?
Bình Luận Của Bạn:
Bạn có thắc mắc, ý kiến đóng góp vui lòng điền thông tin theo mẫu bên dưới rồi nhấn nút GỬI BÌNH LUẬN. Mọi ý kiến đóng góp đều được đón nhận và giải đáp trong thời gian sớm nhất